TOUR DU LỊCH LỄ HỘI
HÀ NỘI – ĐỀN ĐÔ – CHÙA PHẬT TÍCH
– LÀNG GỐM BÁT TRÀNG – HÀ NỘI
THỜI GIAN : 01 NGÀY
PHƯƠNG TIỆN : Ô TÔ
Mã tour : 0303
Thời gian : 01 ngày.
Điểm đến chính : Đền Đô – Chùa Phật Tích – Làng gốm Bát Tràng
Nơi khởi hành : Hà Nội – Nơi kết thúc tour: Hà Nội
Giá tour / 1 khách : 2.000.000 VND (Hai triệu đồng), áp dụng cho Đoàn 45 khách trở lên.
Di động : 09.68.2222.86 – 09.68.2486.82
1.THÔNG TIN CHI TIẾT VỀ TOUR DU LỊCH LỄ HỘI :
HÀ NỘI – ĐỀN ĐÔ – CHÙA PHẬT TÍCH – LÀNG GỐM BÁT TRÀNG – HÀ NỘI (ĂN: SÁNG, TRƯA)
–07h 00: Xe và Hướng dẫn viên của Công ty đón Quý khách tại điểm hẹn ở Vĩnh Phúc, khởi hành đi tham quan Đền Đô – Bắc Ninh.
-Trên đường đi Quý khách nghỉ ngơi, ăn sáng tại Từ Sơn, Bắc Ninh.
–08h 30: Tới đền Đô, xin mời Quý khách tham quan và làm lễ dâng hương tại đền Đô – nơi thờ 8 vị vua triều Lý nên còn có tên là Đền Lý Bát Đế hoặc Cổ Pháp điện. Đền Đô được xây dựng vào thế kỷ XI, ngay trên nền đất mà khi xưa Lý Công Uẩn đã đăng quang và trở lại thăm quê hương, nay thuộc xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Trải qua năm tháng do chiến tranh tàn phá, đền đã được tu sửa và mở rộng trong khuôn viên rộng 3100 m2 nhưng vẫn theo đúng hình dáng và kiến trúc ban đầu, kết hợp giữa phong cách cung đình và dân gian. Các công trình được chạm khắc tinh xảo, sắp xếp hài hòa với thiên nhiên khoáng đạt.
-Quý khách đi tham quan, khám phá nét kiến trúc độc đáo của đền Đô.
–10h 00: Điểm tham quan thứ hai Quý khách dừng chân là chùa Phật Tích – hoang sơ, cổ kính. Chùa có tên là Vạn Phúc, tọa lạc trên núi Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, do Lý Thánh Tông xây dựng vào năm 1057. Điểm độc đáo của ngôi chùa không chỉ là những công trình kiến trúc mà còn là các tác phẩm điêu khắc đá cổ kính. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử – Văn hóa Quốc gia năm 1962, ngày càng thu hút khách du lịch đến tham quan, làm lễ Cầu Phúc, Cầu Tài, Cầu Lộc cho người thân và gia đình.
–11h 30: Xin mời Quý khách nghỉ ngơi, dùng bữa trưa tại nhà hàng.
–13h 30: Xin mời Quý khách đi tham quan điểm cuối cùng tại Làng gốm sứ Bát Tràng.
–Đến Bát Tràng, Quý khách tập trung tại xưởng làm gốm và tráng men. Trên đường đi, quý khách sẽ bắt gặp rất nhiều cửa hàng bán đồ gốm sứ, chiêm ngưỡng những bức tường phơi đầy than thật thú vị. Và khi đã đến xưởng gốm, Quý khách sẽ được xem các công đoạn làm gốm và tìm hiểu về nước men, đồ gốm rồi tự tay làm những sản phẩm gốm sứ mà mình thích dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của các nghệ nhân nơi đây.
-Hướng dẫn viên đưa Quý khách đến tham quan và mua sắm tại Chợ Bát Tràng với cả trăm gian hàng được bày bán san sát nhau. Những sản phẩm gốm sứ được trưng bày vô cùng đa dạng về màu sắc, hình dáng mà không kém phần tinh xảo, giá cả lại phải chăng khiến ai cũng muốn ghé vào để mua như : cốc chén, bát đĩa, trang sức gốm sứ… để làm quà lưu niệm tặng người thân, bạn bè.
–16h 00: Xin mời Quý khách lên xe, xe và Hướng dẫn viên đưa Quý khách về đến điểm hẹn ban đầu, kết thúc tốt đẹp chương trình tham quan : “Hà Nội – Đền Đô – Chùa Phật Tích – Làng gốm Bát Tràng – Hà Nội 1 ngày”.
-Hướng dẫn viên của Công ty cảm ơn Quý khách đã sử dụng dịch vụ, chào tạm biệt và hẹn gặp lại Quý khách trong các chương trình du lịch sau !
2. CHI TIẾT VỀ GIÁ TOUR DU LỊCH :
-Giá tour / 1 khách : 2.000.000 VND (Hai triệu đồng), áp dụng cho Đoàn 45 khách trở lên.
–Trẻ em dưới 05 tuổi miễn phí tiền tour, trẻ em từ 5 đến 10 tuổi tính ½ suất của người lớn, từ 11 tuổi trở lên tính giá tour như người lớn.
2.1. GIÁ TRÊN BAO GỒM :
-Xe ô tô du lịch đời mới, điều hòa nhiệt độ tốt.
–Hướng dẫn viên du lịch giàu kinh nghiệm, nhiệt tình, phục vụ suốt tuyến.
-Ăn sáng: 01 bữa.
-Ăn trưa: 01 bữa.
-Nước uống trên xe ô tô.
-Vé vào cổng các điểm tham quan theo chương trình du lịch này.
-Bảo hiểm 10.000.000 VND / vụ (Mười triệu đồng / vụ).
2.2. GIÁ TRÊN KHÔNG BAO GỒM :
-Chi phí cá nhân : giặt là, điện thoại..
-Đồ uống trong bữa ăn.
-Thuế VAT 10%.
-Các chi phí không có trong chương trình này.
-Hương, hoa, đồ cúng lễ tại chùa, đền.
3. GIỚI THIỆU VỀ ĐỀN ĐÔ VÀ CHÙA PHẬT TÍCH :
3.1. ĐỀN ĐÔ :
–Được khởi dựng từ thế kỷ XI trên đất làng Đình Bảng (Tiên Sơn, Bắc Ninh), Đền Đô (còn gọi là đền Cổ Pháp, đền Lý Bát Đế) là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý. Không chỉ có ý nghĩa về lịch sử, đây còn là điểm du lịch thú vị…
-Đền Đô thuộc làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đền là nơi thờ 8 vị vua nhà Lý: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009 – 1028); Lý Thái Tông (1028 – 1054); Lý Thánh Tông (1054 – 1072); Lý Nhân Tông (1072 – 1128); Lý Thần Tông (1128 – 1138); Lý Anh Tông (1138 – 1175); Lý Cao Tông (1175 – 1210) và Lý Huệ Tông (1210 – 1224).
-Đền Đô – còn gọi là Cổ Pháp Điện hay Đền Lý Bát Đế, đền được xây dựng vào thế kỷ 11 (1030), trên khu đất phía Đông Nam Hương Cổ Pháp, Châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng). Theo Thiền sư Lý Vạn Hạnh, khu đất này là nơi hội tụ của thiên khí, nơi có thế 8 đầu rồng chầu về. Tương truyền, xưa kia phía trước cửa đền là một khu rừng Báng, có dòng Tiêu Tương uốn khúc chảy qua.
-Khi vua Lý Công Uẩn đăng quang và trở lại thăm quê hương vào tháng 2 năm Canh Tuất (1010), tại đây, nhà vua đã dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kỳ lão, yết lăng Thái Hậu và đo vài chục dặm đất làm “Sơn Lăng cấm địa”. Dân làng Đình Bảng đã xây dựng một ngôi nhà lớn làm nơi nghênh tiếp nhà vua. Đình được xây trên nền đất.
-Khi vua Lý Công Uẩn băng hà (1028), Lý Thái Tông lên ngôi kế vị vua cha, ông đã cho sửa sang lại ngôi nhà xưa và chọn đây làm nơi thờ tự vua cha. Cũng từ đó đền trở thành nơi thờ tự các vị vua nhà Lý sau khi băng hà.
-Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, đền Đô đều được quan tâm tu sửa và mở rộng, đặc biệt, đền được mở rộng nhất vào thế kỷ 17 (1602) với quy mô của 21 hạng mục công trình. Kiến trúc của đền có sự kế thừa phong cách cung đình và phong cách dân gian, tổng thể kiến trúc được kết hợp hài hoà, chạm khắc tinh xảo, thể hiện một công trình kiến trúc bề thế vững chắc nhưng không cứng nhắc trong khung cảnh thiên nhiên.
–Năm 1952, đền Đô bị giặc Pháp chiếm và phá huỷ hoàn toàn. Từ năm 1989 trở lại đây, Đền Đô đã từng bước được khôi phục, tìm lại dáng vẻ xưa của đợt trùng tu, mở rộng đền năm 1602 với các hạng mục công trình như: Nhà Hậu cung (80m²), nhà chuyền Bồng (80m²), nhà Kiệu (130m²), nhà để Ngựa (130m²), Thuỷ đình, Phương đình…
-Tổng thể kiến trúc di tích đền Đô như sau:
Đền Đô có diện tích 31.250m², gồm 21 hạng mục công trình lớn nhỏ. Trung tâm là điện thờ, nơi đặt bài vị và tượng của Tám vị vua nhà Lý, xung quanh có nhà chuyền Bồng, nhà Tiền tế, nhà Phương Đình, nhà để kiệu, nhà để ngựa, nhà Thuỷ Đình… Kiến trúc Đền đô được chia làm hai khu vực nội thành và ngoại thành.
Khu vực nội thành có diện tích 4.320m², bố trí theo kiểu “Nội công ngoại quốc” bao quanh là tường gạch cao 3m, rộng 1m (hai bên xây gạch, ở giữa đổ đất) có hai cửa ra vào. Nội thành được chia thành Nội thất và Ngoại thất.
Nội thất bao gồm các công trình: Nhà Hậu cung- nơi đặt ngai và bài vị thờ 8 vị vua nhà Lý. Nhà Chuyền Bồng có kiến trúc chồng diêm 8 mái, các đầu đao uốn cong mềm mại. Ngoài ra còn có nhà để bia, nhà để ngựa, nhà tiền tế, nhà để kiệu… Phía trước, bên trái Chính điện là đền vua Bà (đền Rồng) là nơi thờ Lý Chiêu Hoàng. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp, chạm khắc tinh xảo.
–Bước qua Ngũ Long Môn (cổng tam quan với năm hình rồng chạm đá tinh xảo) là một chiếc sân rộng, nơi đặt lư hương hướng vào nhà phương đình bày hương án với đôi voi đá cỡ lớn chầu ở trung tâm.
Tiếp giáp với phương đình là nhà tiền tế – nơi diễn ra các đại lễ long trọng đồng thời cũng là nơi trưng bày chiêng trống, đồ tế khí, nghi trượng …
–Với một cảnh quan rộng lớn, được chia thành các biệt khu, đền Đô mang lại cho khách hành hương nhiều cảm giác khác nhau: đại điện hoành tráng, hậu cung trang nghiêm, thủy đình thư thái, văn bia tịch mịch. Xen lẫn trong gió là mùi hương trầm ấm áp, hương ngọc lan thoang thoảng, đưa ta vào cõi suy tưởng về một triều đại anh hùng với những võ công văn trị kiệt xuất với tư tưởng Phật giáo từ bi.
-Ngoài những giá trị văn hóa, lịch sử, đền Đô là một công trình kiến trúc đặc sắc với nghệ thuật điêu khắc đá (rồng, voi, ngựa, lân), điêu khắc gỗ (lân, chạm lộng hình rồng, họa tiết trang trí), tạc tượng thờ và xây dựng (hệ thống cột trụ, mái đao) đều đạt ở mức tinh xảo.
-Nhà tiền tế rộng 7 gian (220m2) có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ với 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng: “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt.
-Cổ Pháp điện gồm 7 gian, rộng 180m2 là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.
–Ngoại thất gồm nhà vuông, kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái, 8 đầu đao cong vút mềm mại. Khu vực này có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua bà (thờ các hoàng thái hậu triều Lý).
-Thủy đình dựng trên hồ bán nguyệt, rộng 5 gian, có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Thủy đình đền Đô xưa đã được Ngân hàng Đông Dương thời thuộc Pháp chọn làm hình ảnh tiêu biểu in trên tờ giấy bạc 5 đồng.
–Đền Đô với kiến trúc độc đáo mang tính giá trị nghệ thuật, cảnh trí hữu tình và mang trong mình một giá trị lịch sử văn hoá đậm nét của Vương Triều Lý nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
–Đền Đô từ xưa đã là công trình Quốc gia, nơi tưởng niệm và phụng thờ của toàn dân đối với các vị vua nhà Lý. Lễ hội đền Đô được tổ chức hàng năm vào ngày 15 – 17 tháng 3 âm lịch, kỷ niệm ngày vua Lý Thái Tổ đăng quang (15 tháng 3 năm Canh Tuất – 1010).
-Đền Đô – Đình Bảng cũng là nơi chứng kiến hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ khi dải mây rồng vàng ở phía Thăng Long – Hà Nội bay về rồi tản ra đúng lúc dân làng Đình Bảng bắt đầu lễ rước “Linh bài Lý Thái Tổ và Chiếu dời đô ra Thăng Long” theo nghi lễ cổ truyền.
3.2. CHÙA PHẬT TÍCH :
-Vị trí: Chùa Phật Tích nằm ở sườn núi Lạn Kha (Rìu Mục), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Đặc điểm: Chùa Phật Tích xưa kia là nơi có nhiều nhà tu hành tu luyện. Theo sử sách để lại thì chùa Phật Tích chính là nơi Phật ngự.
-Tên thường gọi: Chùa Phật Tích
-Chùa thường gọi là chùa Phật Tích, tọa lạc ở sườn núi Lạn Kha, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Chùa cách Hà Nội khoảng 20 km về phía Đông Bắc. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
-Chùa được khởi dựng vào khoảng thế kỷ VII – X. Đến thời Lý, chùa được đại trùng tu quy mô, trở thành một trung tâm Phật giáo. Vào năm 1057, Vua Lý Thánh Tông đã cho dựng cây tháp và đúc pho tượng mình vàng. Thời Trần đã cho lập một Thư viện lớn trên núi Lạn Kha do danh nho Trần Tôn làm Viện trưởng để giảng dạy các sinh đồ.
-Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết hằng năm vào ngày mồng 4 tháng giêng mở hội xem hoa, nhiều người đến dâng hương lễ Phật. Chính hội xem hoa này đã dẫn đến câu chuyện lãng mạn “Từ Thức gặp tiên”. Năm 1383, Trần Nghệ Tông tổ chức thi Thái học sinh ở ngay trong chùa, lấy đỗ 30 người.
–Chùa được bà Trần Ngọc Am, đệ nhất cung tần của Thanh Đô Vương Trịnh Tráng cho sủa chữa quy mô vào thế kỷ XVII. Chùa bị phá hủy hoàn toàn vào năm 1947. Năm 1958, chùa được dựng lại sơ sài. Đến năm 1991, chùa được xây dựng dần theo quy mô kiến trúc cổ. Vườn tháp mộ sau chùa có 32 ngôi tháp. Chùa thờ tượng nhục thân Thiền sư Chuyết Chuyết.
– Chùa còn giữ một số tác phẩm điêu khắc thời Lý. Ở thềm bậc nền thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá là : sư tử, voi, trâu, ngựa, tê giác, mỗi loại 2 con, mỗi con cao khoảng 2m nằm trên bệ hoa sen, cùng một số di vật khác như : đấu kê, chân tảng… Đặc biệt, có một chân tảng chạm khắc thật sinh động các nghệ sĩ đang biểu diễn các nhạc khí gồm: sáo dọc, sáo ngang, đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tam, đàn tì bà, trống phách. Đó là dàn nhạc bát âm cổ vào thời Lý. Bát âm là tám chất liệu âm thanh gọi chung cho 8 loại nhạc khí được chế tác bằng 8 chất liệu khác nhau: Thạch (đá, như đàn đá, khánh đá), Thổ (đất, như trống đất của dân tộc Cao Lan), Kim (sắt, có dây bằng sắt), Mộc (gỗ, như song loan, mõ), Trúc (hơi thổi, như tiêu, sáo), Bào (nhạc khí làm bằng vỏ quả bầu, như tính tẩu, đàn bầu), Tì (dây tơ, như đàn nhị, hồ, líu), Cách (da, như trống cái, trống chầu).
–Đặc biệt, ở điện Phật, có pho tượng đức Phật ngồi thiền định trên tòa sen cao 1,85m, kể cả bệ là 3m. Một số nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng bệ đá hoa sen có từ thời Lý, còn pho tượng có thể có trước thời Lý. Đây là một kiệt tác điêu khắc bằng đá ở Việt Nam.
-Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.